Tình hình hoạt động kinh tế quý I của ngành công nghiệp ô tô vừa và nhỏ
Jul 12, 2024
Để lại lời nhắn
Đối mặt với rủi ro và tăng cường sự tự tin để vượt qua thử thách
– Tình hình hoạt động kinh tế quý I của ngành công nghiệp ô tô vừa và nhỏ
Ngành động cơ vừa và nhỏ thuộc Cục Thống kê ngành đã tổng hợp, đối chiếu và phân tích số liệu thống kê của 58 doanh nghiệp sản xuất động cơ trong cả nước.
Trong quý đầu tiên của các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định đạt được mức tăng trưởng thu nhập hoạt động là 2,3% so với cùng kỳ năm trước, tổng lợi nhuận tăng trưởng là 4,3% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp máy móc đạt được mức tăng trưởng thu nhập hoạt động là 0,7% so với cùng kỳ năm trước, tổng lợi nhuận giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp động cơ đạt được mức tăng trưởng thu nhập hoạt động là 2,5% so với cùng kỳ năm trước, tổng lợi nhuận tăng trưởng là 11,3% so với cùng kỳ năm trước, ngành công nghiệp động cơ, tốc độ tăng trưởng thu nhập hoạt động và tổng lợi nhuận cao hơn mức của ngành công nghiệp quốc gia và ngành công nghiệp máy móc. Ngành công nghiệp quốc gia và ngành công nghiệp máy móc.
Theo số liệu doanh nghiệp báo cáo của chương: hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều giảm so với cùng kỳ năm trước, thu nhập hoạt động tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, tổng lợi nhuận giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước, chỉ số hiệu quả kinh tế của ngành giảm 9,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
1, Tổng giá trị sản xuất công nghiệp quý I đạt 16,49 tỷ nhân dân tệ, không đổi so với cùng kỳ năm trước, giá trị gia tăng công nghiệp giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước, tổng sản lượng đạt 54,986 triệu kilowatt, giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước.
2, doanh thu bán hàng quý đầu tiên đạt 16,43 tỷ nhân dân tệ, tăng 1,8%.
Trong số 58 doanh nghiệp.
Tổng sản lượng của 32 doanh nghiệp giảm, chiếm 55,2% tổng số doanh nghiệp, trong đó có 15 doanh nghiệp có tỷ lệ giảm trên 20%; doanh thu bán hàng của 33 doanh nghiệp giảm, chiếm 56,9% tổng số doanh nghiệp, trong đó có 12 doanh nghiệp có tỷ lệ giảm trên 20%; doanh thu bán hàng của 32 doanh nghiệp giảm, chiếm 55,2% tổng số doanh nghiệp, trong đó có 12 doanh nghiệp có tỷ lệ giảm trên 20% doanh thu bán hàng của 32 doanh nghiệp.
(A) Tình hình chung của ngành trong quý đầu tiên của ngành đạt lợi nhuận thực hiện là 800 triệu nhân dân tệ, giảm 14,0% so với cùng kỳ năm trước.
Có 44 doanh nghiệp có lãi, chiếm 75,9% tổng số doanh nghiệp. Trong đó, 22 doanh nghiệp có lợi nhuận giảm so với cùng kỳ, chiếm 37,9% tổng số doanh nghiệp; 14 doanh nghiệp có lợi nhuận tăng so với cùng kỳ, chiếm 24,1% tổng số doanh nghiệp; và 8 doanh nghiệp chuyển từ lỗ sang có lãi, chiếm 13,8% tổng số doanh nghiệp. Có 14 doanh nghiệp lỗ, chiếm 24,1% tổng số doanh nghiệp.
Trong đó, có 3 doanh nghiệp giảm lỗ, 6 doanh nghiệp tăng lỗ và 5 doanh nghiệp mới vào lỗ. Tổng lợi nhuận của 9 doanh nghiệp giảm hơn 10 triệu nhân dân tệ so với cùng kỳ.
Sản lượng động cơ xuất khẩu đạt 6,421 triệu kilowatt, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước; doanh số bán động cơ xuất khẩu đạt 6,070 triệu kilowatt, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu động cơ xuất khẩu đạt 1,62 tỷ nhân dân tệ, tăng 10,5%.
Có 16 doanh nghiệp có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước, chiếm 50%, trong đó có 11 doanh nghiệp có tỷ lệ giảm trên 20%; có 17 doanh nghiệp có doanh thu bán hàng giảm so với cùng kỳ năm trước, chiếm 53,1%, trong đó có 12 doanh nghiệp có tỷ lệ giảm trên 20%; có 17 doanh nghiệp có doanh thu bán hàng giảm so với cùng kỳ năm trước, chiếm 53,1%, trong đó có 12 doanh nghiệp có tỷ lệ giảm trên 20%.
Hàng tồn kho cuối kỳ là 19,95 tỷ nhân dân tệ, giảm 0,8% so với cùng kỳ, trong đó hàng tồn kho thành phẩm là 6,53 tỷ nhân dân tệ, giảm 6,7% so với cùng kỳ; các khoản phải thu là 20,39 tỷ nhân dân tệ, giảm 2,0% so với cùng kỳ; các khoản phải trả là 17,54 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,4% so với cùng kỳ; tỷ lệ hàng tồn kho và các khoản phải thu trên tài sản lưu động cuối kỳ là 53,1%, giảm 1,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ.
Giá đơn vị trung bình của tấm thép silic vào cuối quý 1 năm 2024 là 5.941 nhân dân tệ/tấn, giảm 4,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,5% so với cuối quý 4 năm 2023; giá đơn vị trung bình của tấm thép silic vào cuối quý 1 năm 2024 là 5.941 nhân dân tệ/tấn.
Giá đơn vị trung bình của dây điện từ là 77.448 RMB/tấn vào cuối quý 1 năm 2024, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,6% so với cuối quý 4 năm 2023.
Giá thép cacbon trung bình một đơn vị là 4.766 RMB/tấn vào cuối quý 1 năm 2024, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm ngoái và không đổi so với cuối quý 4 năm 2023.
Giá trung bình của thỏi nhôm là 19.701 NDT/tấn vào cuối quý 1 năm 2024, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,9% so với cuối quý 4 năm 2023.
Giá mua trung bình của các bộ phận gang là 7.399 RMB/tấn vào cuối quý 1 năm 2024, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,2% so với cuối quý 4 năm 2023.
Chỉ số hiệu quả kinh tế toàn diện giai đoạn hiện tại là 235,1, giảm 9,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Trong bảy chỉ tiêu chính, tỷ lệ đóng góp của tổng tài sản toàn ngành giảm 1,1 điểm phần trăm; tỷ lệ giá trị gia tăng của tài sản toàn ngành giảm 5,9 điểm phần trăm; biên lợi nhuận của chi phí và chi phí toàn ngành giảm 1 điểm phần trăm; năng suất lao động của toàn thể người lao động giảm 5,80 nhân dân tệ/người; tỷ lệ đòn bẩy tài chính toàn ngành giảm 0,7 điểm phần trăm; tỷ lệ luân chuyển thanh khoản toàn ngành giữ nguyên; tỷ lệ bán sản phẩm của toàn ngành tăng 2,9 điểm phần trăm.
Từ năm 2024, giá mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế có xu hướng tăng, nhưng hầu hết các công ty đều cho biết giá thành phẩm vẫn ổn định hoặc giảm nhẹ, bóp méo biên lợi nhuận, dự kiến doanh thu quý II và tổng lợi nhuận có xu hướng giảm; hiện tại, áp lực của hoạt động kinh doanh vẫn chủ yếu là do thiếu đơn hàng, giá nguyên vật liệu tăng, hạn chế về thanh khoản, khó thu hồi tiền thanh toán hàng hóa, khó tuyển dụng lao động.
Kinh tế toàn cầu ổn định và phát triển không chắc chắn, phát triển kinh tế trong nước vẫn còn nhiều mâu thuẫn, chúng ta phải đối mặt với khó khăn, có dũng khí đối mặt với rủi ro và thách thức; tăng cường sự tự tin, làm việc về nghiên cứu công nghệ cơ bản, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm và đổi mới dịch vụ trên thế mạnh về chất lượng cao để ứng phó với nhu cầu thị trường, và một tiêu chuẩn cao để dẫn đầu sự phát triển của ngành, và đóng góp cho sự vận hành kinh tế của ngành và doanh nghiệp một cách thông suốt.